Vào nội dung chính
Tạp chí Việt Nam

Việt Nam muốn thành “cứ điểm” sản xuất thế giới nhưng thiếu cơ sở hạ tầng

Đăng ngày:

Việt Nam đề ra 3 cột mốc phát triển cho giai đoạn 20 năm : “Đến năm 2025 trở thành nước phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp ; đến năm 2030 trở thành nước phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao ; tiến tới đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. (1)

Nhà máy Intel Việt Nam được khởi công xây dựng ngày 28/03/2007 tại khu Công nghệ cao Sài Gòn (Saigon High Tech Park), thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ảnh minh họa.
Nhà máy Intel Việt Nam được khởi công xây dựng ngày 28/03/2007 tại khu Công nghệ cao Sài Gòn (Saigon High Tech Park), thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ảnh minh họa. AP - LE QUANG NHAT
Quảng cáo

Để thực hiện những mục tiêu này, ngoài những nhà đầu tư chính Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…, chính phủ Việt Nam muốn đa dạng các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là vào những lĩnh vực công nghệ cao. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tích cực vận động các nhà lãnh đạo các đại tập đoàn đa quốc gia, quỹ đầu tư, định chế tài chính Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam nhân chuyến công du dự thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tháng 05/2022.

Ngoài ra, Việt Nam dường như cũng đang muốn thu hút một phần đầu tư từ dự án Hợp tác Đối tác về Cơ sở Hạ tầng và Đầu tư toàn cầu (PGII, trị giá 600 tỉ đô la trong vòng 5 năm) của Mỹ và G7 dành cho các nước đang phát triển. Do đó, thủ tướng Phạm Minh Chính cũng đề nghị Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) tiếp tục tư vấn chuyên môn cho Việt Nam để đạt thỏa thuận thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng với các nước G7.

Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và nền tảng pháp lý ở Việt Nam đã sẵn sàng tiếp nhận những nguồn đầu tư mới ? Việt Nam đáp ứng được tiêu chí “minh bạch” được các nước G7 nhấn mạnh khi thông báo PGII ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Eric Mottet, giảng viên trường Đại học Công giáo Lille, Pháp.

*****

RFI : Trước tiên, xin ông giải thích về chính sách đầu tư nước ngoài hiện nay của Việt Nam ! Hà Nội chủ yếu ưu tiên những lĩnh vực nào ? Và những lĩnh vực này khác với trước ra sao ?

Eric Mottet : Hiện tại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam rất lớn và ngày càng nhiều. Ví dụ tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2021 là 31 tỉ đô la Mỹ, cao hơn rất nhiều so với 10 tỉ đô la vào năm 2014. Có nghĩa là tăng gấp ba lần chỉ trong vòng 7-8 năm.

Chúng ta thấy là năm 2021, cuối cùng Việt Nam lại không bị tác động vì khủng hoảng kinh tế. Điều này được giải thích qua việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn rất mạnh, tiếp theo là nhiều nước bị xáo trộn hoạt động sản xuất, đặc biệt là Trung Quốc với chiến lược chống Covid-19 vô cùng nghiêm ngặt ở Bắc Kinh, trong khi ở Việt Nam thì ngược lại, nới lỏng rất nhiều do trở lại bình thường từ vài tháng nay, và cuối cùng là qua việc căng thẳng chính trị-thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Trước đây, thường thì đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu hướng vào ngành công nghiệp nhẹ. Nhưng vài năm gần đây, vốn đầu tư chuyển sang ngành công nghiệp nặng và bất động sản công nghiệp (ví dụ nhà xưởng), có nghĩa là những vùng, những khu công nghiệp đang tuyển dụng tới gần 4 triệu người ở Việt Nam. Đó là một lĩnh vực hoạt động vô cùng quan trọng. Người ta cũng thấy đầu tư gia tăng trong các ngành du lịch, hoạt động chuyên ngành công nghệ, điện tử mũi nhọn, đặc biệt là “Green Tech”, ngành sản xuất ô tô, y tế. Có thể thấy là Việt Nam đã trở thành một quốc gia vô cùng hấp dẫn về đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Vậy những nước nào đang đầu tư vào Việt Nam ? Trước tiên, đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore - những nước châu Á đang đầu tư ồ ạt vào Việt Nam, và hiện chưa có nhiều nước châu Âu hay Hoa Kỳ. Còn tại sao lại đầu tư vào Việt Nam ? Đó là vì Việt Nam có nhiều điểm mạnh, như tăng trưởng mạnh và ổn định từ khoảng 20 năm gần đây, nhân công trẻ, giá rẻ lại có tay nghề cao và ngày càng thành thạo, chính trị-xã hội ổn định, thêm vào đó là vị trí địa lý thuận lợi nên Việt Nam trở thành trung tâm công nghiệp vừa mang tính cạnh tranh vừa hấp dẫn trong vùng.

Điều thay đổi so với khoảng 10-20 năm trước đây, đó là chính phủ tìm cách tự do hóa thị trường và đưa ra nhiều biện pháp cải cách dựa trên thị trường tự do. Một yếu tố quan trọng khác giải thích cho các nguồn đầu tư lớn, đó là lĩnh vực nông nghiệp, cũng như các nguồn tài nguyên, vẫn chưa được khai thác đúng mức ở Việt Nam. Đây là điểm ít thay đổi trong những năm gần đây. Do đó, có thể thấy một loạt yếu tố khiến các nhà đầu tư trực tiếp, trước tiên là châu Á, tiếp theo là ngày càng nhiều nhà đầu tư châu Âu và Hoa Kỳ quan tâm đến Việt Nam.

RFI : Liệu khuôn khổ pháp lý liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có những thay đổi lớn trong 30 năm qua ?

Eric Mottet : Có, bởi vì đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ được phép từ năm 1988, còn trước đó bị cấm. Tất cả nằm trong khuôn khổ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có vốn nước ngoài được đầu tư, bảo vệ lợi ích và các nhà đầu tư nước ngoài, triển khai những điều kiện thuận lợi, như đơn giản hóa thủ tục giúp người nước ngoài đầu tư lớn vào Việt Nam.

Một điểm mới xuất hiện gần đây trong Luật Đầu tư nước ngoài, đó là hiện giờ, người lao động nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được phép chuyển tiền ra nước ngoài. Trước đây, điều này là không thể, họ có thể đầu tư, rút lợi nhuận từ các khoản đầu tư đó ở Việt Nam nhưng không được phép chuyển tiền ra nước ngoài. Nhưng hiện giờ thì hoàn toàn có thể. Ngoài ra, cũng phải kể đến những tiến bộ đáng kể về mặt tòa án, về quyền lợi ở Việt Nam. Hiện có nhiều cơ chế trọng tài Việt Nam cho phép giải quyết một tranh chấp giữa một nhà đầu tư nước ngoài với chính quyền hoặc các đối tác Việt Nam.

Việt Nam đã thăng hạng rất nhiều trong Báo cáo Môi trường Kinh doanh “Doing Business” của Ngân Hàng Thế Giới. Việt Nam đang đứng thứ 70 trên tổng số 190 nước. Đây là thành tích tốt so với năm 2010 khi Việt Nam đứng ở vị trí 93. Có thể thấy là Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực về việc tạo điều kiện kinh doanh. Chính phủ đã không ngừng nỗ lực thu hút thêm các công xưởng, các nguồn đầu tư vào trong nước.

Nhìn chung, đầu tư nước trực tiếp nước ngoài được định hướng theo một khuôn khổ cụ thể. Chính phủ Việt Nam đề nghị đầu tư vào 10 lĩnh vực chủ đạo. Tôi không liệt kê ra hết ở đây, nhưng có thể nêu một số lĩnh vực chế biến và sản xuất, sản xuất và phân phối điện trong bối cảnh Việt Nam đang rất cần để phát triển kinh tế, đặc biệt là ở miền nam, cũng như các lĩnh vực khác như bất động sản, thương mại bán sỉ bán lẻ… Có thể thấy rõ là bộ Kế Hoạch và Đầu Tư nhắm đến mục tiêu thu hút thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ yếu vào lĩnh vực năng lượng, công nghệ cao. Chính phủ Việt Nam cố gắng kiện toàn hệ thống tư pháp, tài chính, một hệ thống cho phép Việt Nam tôn trọng những cam kết của cộng đồng quốc tế, và về dài hạn sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa nền kinh tế.

Việt Nam đã ký một loạt hiệp định thương mại và có hiệu lực từ năm 2020, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, Hiệp định Thương mại Tự do Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam - EVFTA, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Anh Quốc - UKVFTA. Do đó, có thể thấy, thông qua một đạo luật mới, Việt Nam đang tạo điều kiện tiếp cận tốt hơn cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời khuyến khích cải cách cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ồ ạt vào Việt Nam.

RFI : Việt Nam vẫn thường bị chỉ trích về điều kiện cơ sở hạ tầng. Liệu đây vẫn là điểm yếu của Việt Nam ?

Eric Mottet : Nếu nhìn vào tất cả các tài liệu quảng bá đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thì điểm đầu tiên, chính là nhược điểm về cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng. Đúng là Việt Nam có nhiều điểm yếu, ví dụ lưu thông từ bắc xuống nam rất phức tạp với nút cổ chai trong việc vận chuyển hàng hóa giữa hai miền. Đây là sự kìm hãm cho phát triển sản xuất và hoạt động thương mại ngay trong nước.

Chính phủ đã cố gắng triển khai nhiều dự án từ vài năm gần đây : khuyến khích đầu tư nước ngoài, kể cả với các định chế tài chính quốc tế ; đầu tư mạnh vào những dự án phát triển cơ sở hạ tầng quy mô lớn giúp giao thông trong nước được dễ dàng hơn. Vấn đề ở chỗ, phát triển cơ sở hạ tầng cần phải có thêm nhiều tác nhân, nhiều bên tham gia. Hơn nữa, trên thực tế, xây dựng cơ sở hạ tầng mất nhiều thời gian, ít lợi nhuận về mặt kinh tế. Ngoài ra, Việt Nam cũng không có nhiều cảng lớn hiện đại, không đủ năng lực như các cảng ở Singapore, Malaysia, Trung Quốc, có nghĩa là những nước mà Việt Nam cạnh tranh.

Theo tôi, Việt Nam còn nhiều điểm yếu khác không chỉ liên quan đến cơ sở hạ tầng, mà còn về cơ cấu tài chính, như lĩnh vực ngân hàng, hoặc mang tính nhạy cảm liên quan đến các quyết định chính trị. Ngoài ra còn phải kể đến những nhược điểm về minh bạch luật pháp, ví dụ một tranh chấp thương mại có thể mất đến vài năm để giải quyết giữa hai bên, rồi nguy cơ lớn về tham nhũng. Sự phát triển bất cân xứng giữa các địa phương trong nước cũng bị coi là điểm yếu cho các nhà đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực hạ tầng ở Việt Nam.

RFI : Liệu những vấn đề về môi trường và sinh thái có được đưa vào những dự án đầu tư mới để tránh đầu tư “bẩn” (như trường hợp Formosa từng làm ô nhiễm vùng biển miền trung Việt Nam) ? Đây có phải là một mối bận tâm của chính phủ không ?

Eric Mottet : Đó là một mối bận tâm đối với chính phủ Việt Nam. Chúng ta biết là thủ tướng Phạm Minh Chính, tại Hội nghị COP26 vào tháng 10/2021, đã thông báo Việt Nam đặt mục tiêu trung hòa khí thải CO2 vào khoảng năm 2050. Đây là một mong muốn, một cam kết thực sự được chính phủ Việt Nam đưa ra và cũng có ý định giữ lời.

Có thể thấy quyết tâm của chính phủ Việt Nam từ vài năm gần đây trong việc khuyến khích cho đầu tư xanh, phát triển lĩnh vực năng lượng tái tạo và hiệu quả về năng lượng. Để đạt được mục tiêu trung hòa khí thải vào năm 2050, Việt Nam đã triển khai và đã cố gắng giảm đáng kể sản xuất nhiệt điện. Việc này hiện còn khá phức tạp nhưng đó thực sự là nguyện vọng của chính quyền Việt Nam hướng đến mốc năm 2050.

Tóm lại, cùng với mong muốn phục hồi kinh tế, Việt Nam đang tìm cách thu hút các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào kinh tế xanh. Phía các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư, tài trợ lớn châu Âu, cũng phản hồi khá tích cực. Họ coi Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực năng lượng. Cơ quan Phát triển Pháp - AFD, nhiều nước Liên Hiệp Châu Âu như Bỉ, muốn phát triển các hải cảng “xanh” ở Việt Nam. Phía Mỹ, trong khuôn khổ dự án kinh tế Ấn Độ-Thái Bình Dương - IPEF, cũng muốn đầu tư vào năng lượng tái tạo.

Có thể thấy chính phủ Việt Nam mong muốn và nhận thức được rằng phải nỗ lực và tập trung mạnh mẽ hơn vào đầu tư xanh, phát triển “nền kinh tế xanh”. Dù phải nói là sẽ không đạt được khối lượng và cấp độ có thể thấy ở châu Âu nhưng đã có sự nhận thức thực sự nếu nhìn vào những khoản đầu tư ngày càng tăng từ nhiều năm gần đây vào những lĩnh vực này và chủ yếu là từ các nước Liên Hiệp Châu Âu.

RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Eric Mottet, giảng viên trường Đại học Công giáo Lille, Pháp.

******

(1) Facebook Thông tin Chính phủ ngày 16/05/2022

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Xem các tập khác
Không tìm thấy trang

Nội dung bạn đang cố truy cập không tồn tại hoặc không còn khả dụng.