Vào nội dung chính
Tạp chí kinh tế

Áp lực đối với Việt Nam giải quyết nợ công

Đăng ngày:

Một phần ba các tập đoàn nhà nước Việt Nam ôm khối nợ lớn hơn gấp 3 lần so với vốn tự có. Đâu là rủi ro khi các hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc đến 64 % vào vốn đi vay ? Nợ công của Việt Nam có thực sự còn ở mức an toàn hay không ? RFI phỏng vấn tiến sĩ Vũ Quang Việt từ New York, nguyên là chuyên gia thống kê của Liên Hiệp Quốc.

Reuters
Quảng cáo

Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ vừa trình lên Quốc hội Việt Nam đầu tháng 11 báo cáo về tình hình tài chính quốc gia và các hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Theo đó, nợ công của chính phủ Việt Nam trong tài khóa 2011 lên đến 1.391.472 tỉ đồng – tương đương với 55,4 % GDP. Như vậy theo Bộ Tài chính nợ công của chính phủ « vẫn ở mức an toàn », không vượt quá mức trần 65 % GDP.

Liên quan đến nợ của các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính không được lạc quan bằng khi đánh giá : nợ phải trả của các tập đoàn và tổng công ty lên tới gần 1,3 triệu tỉ đồng trong năm 2011, tăng gần 19% so với năm 2010.

Cụ thể hơn : trung bình hệ số nợ phải trả so với vốn tự có của khu vực kinh tế nhà nước Việt Nam trong năm 2011 là 1, 77 lần. Điều này có nghĩa là một tập đoàn nhà nước Việt Nam với 1 đồng vốn, có thể dễ dàng đi vay thêm 1,77 đồng vốn nữa. Hay nói cách khác là 64 % vốn của một doanh nghiệp nhà nước Việt Nam là vốn đi vay.

Tuy nhiên trên tổng số 91 tập đoàn và tổng công ty nhà nước Việt Nam, có đến 8 đơn vị hiện đang ôm một khối nợ lớn gấp hơn 10 lần so với vốn tự có ; 10 tập đoàn và công ty nợ gấp từ 5 đến 10 lần so với vốn sở hữu ; đối với 10 tập đoàn hệ số nợ là từ 3 đến 5 lần. Trong khi đó, theo quy định của bộ Tài chính Việt Nam, một công ty được coi là an toàn khi tỉ lệ nợ so với vốn tự có không vượt quá 3 lần.

Tóm lại có đến 1/3 các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đang ngồi trên một núi nợ khổng lồ và bị coi là không an toàn. Trong số ấy, phải kể đến tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam ; tập đoàn Điện lực Việt Nam ; tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam ; tổng công ty Hàng hải Việt Nam ; tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam ; tập đoàn Bưu chính Viễn thông ….

Báo cáo của Bộ trưởng Tài chính Việt Nam, Vương Đình Huệ ghi nhận : « Các tập đoàn, tổng công ty đang hoạt động phụ thuộc phần lớn vào nguồn vốn vay, dẫn đến chi phí tài chính lớn và khả năng thanh toán nợ đến hạn thấp ».

Tình trạng nợ công của Việt Nam hiện nay ra sao ? Ai là chủ nợ của Việt Nam ? Đâu là những hậu quả đối với ngân sách nhà nước khi nợ công phải bao hàm cả những khoản nợ của các tập đoàn và tổng công ty của nhà nước Việt Nam ? Điều gì sẽ xảy ra khi các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam mất khả năng thanh toán nợ ? 

Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên là chuyên gia kinh tế trực thuộc Liên Hiệp Quốc lần lượt trả lời các câu hỏi trên của ban Việt ngữ RFI.

Bài viết của Tiến sĩ Vũ Quang Việt :

Số liệu về nợ công và nợ qua hệ thống tín dụng ngân hàng là những số liệu cần thiết để đánh giá nền kinh tế Việt Nam. Nhưng số liệu này cho đến gần đây được giấu kín, và chỉ được cung cấp nhỏ giọt và không đầy đủ cho các tổ chức quốc tế như IMF và ADB và có thể việc cung cấp cho Quốc hội cũng thế. Tuy nhiên mới đây Bộ Tài chính qua báo cáo của ông Vương Đình Huệ với Quốc hội đã công bố nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chính phủ cũng công bố nợ công, và lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên mạng của họ một vài số liệu về tín dụng ngân hàng.

Những số liệu này chỉ có cho năm 2011 dù không đầy đủ và lại không cập nhật hàng quý theo truyền thống quốc tế cũng là dấu hiệu đáng mừng. Hình như chính phủ muốn minh bạch hơn một chút. Chính sự thiếu minh bạch này đã làm cho các bàn thảo về chính sách thiếu cơ sở, thậm chí đưa đến những hành động sai lầm.

Bài viết ngắn này chỉ nhằm trình bày một số thông tin về nợ công, và nợ qua hệ thống tín dụng ngân hàng, dựa vào số liệu vừa mới được cơ quan có trách nhiệm của nhà nước cung cấp thay vì những số liệu mà người viết phải nhặt nhạnh khắp nơi để tổng kết lại một cách không chính xác. 

                                                       Nợ công

Nợ công theo định nghĩa của Việt Nam chỉ bao gồm nợ của chính phủ (gồm cả chính quyền trung ương và địa phương) hoặc nợ được chính phủ bảo lãnh. Nợ bao gồm nợ vay ngân hàng và nợ qua phát hành công trái, cũng như chi phí phải trả mà chưa trả được.

Nợ công theo định nghĩa quốc tế bao gồm nợ theo định nghĩa của Việt Nam và nợ của doanh nghiệp nhà nước. Nợ theo định nghĩa quốc tế rõ ràng là phù hợp với tình hình Việt Nam. Chính vì nhà nước làm chủ sở hữu chủ của DNNN do đó mà nhà nước không thể phủi tay để chủ nợ tước hữu đòi theo đúng luật phá sản, như ta đã thấy là nợ của Vinashin đã được chính quyền dồn cho các DNNN khác phải trả.

Bảng 1. Nợ công của Việt Nam năm 2011

Tỉ đồng Tỉ US So với GDP
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam 1,391,478 66.8 55%
Nợ của chính phủ 1,085,353 52.1 43%
Nợ chính phủ bảo lãnh 292,210 14.0 12%
Nợ chính quyền địa phương 13,915 0.7 1%
Nợ công theo định nghĩa quốc tế 2,683,878 128.9 106%
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam 1,391,478 66.8 55%
Nợ của DNNN(trong và ngoài nước) 1,292,400 62.1 51%
Nguồn và chú thích: Vương Đình Huệ, Bộ Tài chính. Trong nợ nước ngoài của DNN có thể có 1 phần do chính phủ bảo lãnh cho nên tổng nợ có tính trùng, phải trừ đi khỏi nợ DNNN, cao nhất là 14 tỉ.

Như vậy là tổng nợ công theo định nghĩa quốc tế vào cuối năm 2011 đã là 128.9 tỉ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ USD), cao hơn 90 tỉ USD mà trước đây tác giả ước tính ở mức tối thiểu.

Tổng số nợ của DNNN là 62.1 tỉ USD bằng 55% GDP.

Mức trần tỉ lệ nợ công trên GDP không quá 65% GDP vào năm 2015 mà chính phủ đề nghị Quốc hội đã bị vượt qua từ lâu rồi. Không ý thức được điều này thì chính sách trong tương lai sẽ không thể phù hợp.

                                      Phân tích hệ quả của nợ công : áp lực trả nợ

Theo ông Huệ, hệ số nợ trên tính trên vốn tự có là 1.77. Thông thường, người có 1 đồng vốn có thể dễ dàng đi vay thêm 1 đồng vốn nữa như vậy thì tỷ lệ trên là 1. Nếu tỉ lệ càng cao thì mức rủi ro trong sản xuất càng lớn vì áp lực phải trả lãi. Với hệ số nợ là 1.77, thì 64% là vốn vay. Chúng ta có thể dễ dàng làm mô hình về khả năng phá sản của công ty. Thí dụ nếu lãi suất trả nợ là 15% nhưng lợi nhuận chỉ là 10% trên vốn đầu tư thì lợi nhuận (tính theo doanh thu trừ chi phí phi tài chính) chỉ đủ trả lãi. Nếu lợi nhuận thấp hơn 10% thì công ty lỗ, mất có khả năng trả nợ. Phải chăng đây là trường hợp của hầu hết DNNN và cả DNTN hiện nay? Theo ông Huệ, có đến 30 tập đoàn, tổng công ty hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó có 8 đơn vị có hệ số trên 10 lần, 10 doanh nghiệp từ 5 – 10 lần, 12 tập đoàn, tổng công ty từ 3 - 5 lần. Như vậy có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ. Nếu không giảm được lạm phát, qua đó giảm lãi suất thì doanh nghiệp nói chung khó có khả năng sống còn.

Bảng 2. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011

Hệ số trên vốn tự có của DNNN Tỷ lệ
Vốn tự có 1 36%
Vốn vay 1.77 64%
Tổng vốn 2.77 100%

                                                  Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực ngân sách

Nếu 8.8% là nợ xấu thì tổng số nợ xấu trong nợ công sẽ là 11.3 tỉ USD. So với tổng ngân sách thu của nhà nước năm 2011 là 33.8 tỉ USD bằng 28% GDP thì con số nợ xấu trên rất lớn, vượt ngoài sức chịu đựng của ngân sách. Trong việc giải quyết nợ công xấu, ai sẽ là người chịu thiệt? Không lẽ ngân sách chỉ dùng để trả nợ xấu? Hay in tiền tạo lạm phát?

                                                   Nợ nước ngoài

Hiện nay nợ nước ngoài vẫn chưa được Bộ Tài chính công bố cho năm 2011. Con số năm 2010 ở bảng 3 là từ Bộ Tài chính, nhưng con số năm 2011 là ước tính dùng tốc độ tăng của năm trước. Nợ nước ngoài chưa phải là điều đáng lo vì nó chỉ bằng 39.8% GDP. Tuy nhiên, nợ nước ngoài của khu vực doanh nghiệp tăng mạnh những năm gần đây; điều này mới là đáng lo ngại vì thường chúng là nợ trung hạn chứ không phải nợ dài hạn của chính phủ.

Bảng 3. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011

Năm 2010 Ước tính 2011 theo mức tăng 15% của năm trước
Tổng nợ nước ngoài 42.2 48.5
Nợ công theo định nghĩa VN 32.2 37.0
Nợ chính phủ 27.6 31.7
Nợ chính phủ bảo lãnh 4.6 5.3
Nợ doanh nghiệp 10 11.5
Tổng nợ công 128.9

                                                         Nợ ngân hàng nội địa

So với các nước trong khu vực, tín dụng từ nguồn hệ thống tín dụng nội địa ở Việt Nam là rất cao; tỉ lệ tín dụng lên tới 121% GDP, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam còn ở mức thấp (bảng 4). Dựa vào tín dụng thay vì vốn tự có để phát triển kinh tế dễ đẩy nền kinh tế đến chỗ bong bóng. Tỉ lệ tín dụng cao so với GDP và cụ thể hóa trong Bảng 2 ở tỉ lệ vốn vay trên vốn tự có đã nói rõ lên điều này.

Bảng 4. Tỉ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP

Tổng dư nợ nội địa trên GDP
Trung Quốc 145.9
Ấn độ 75.1
Indonesia 38.5
Mã Lai 132.1
Philippines 51.8
Singapore 93.6
Thái Lan 150.0
Việt Nam 120.9

Nguồn: Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012

Tổng nợ của DNNN được tính là 62.1 tỉ USD (Bảng 1) trong khi theo báo cáo của Việt Nam với Ngân hàng châu Á (ADB) và IMF, DNNN chỉ vay từ hệ thống tín dụng là 24.5 tỉ USD (490.000 tỉ đồng ở bảng 5). Vậy thì 37.6 tỉ phải là từ trái phiếu hoặc nợ nước ngoài. Theo Bản tin số 7 của Bộ tài chính, nợ nước ngoài của DNNN cao nhất là 11.5 tỉ USD (vì con số này gồm cả nợ của doanh nghiệp tư nhân). Vậy thì 26.5 tỉ USD còn lại trong nợ của DNNN ở đâu mà ra. Có lẽ NHNN đã tính sai nợ tín dụng DNNN vào nợ tư nhân không chừng?

Bảng 5. Dư nợ của hệ thống ngân hàng, 2011

Tỉ đồng Tỉ US Tỉ lệ
Tổng tín dụng của hệ thống ngân hàng 3,063,000 147.1 100%
Chính phủ vay 232,000 11.1 8%
DNNN vay 490,000 23.5 16%
DN tư nhân& hộ gia đình vay 2,341,000 112.4 76%
Nguồn: ADB Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012

                                                    Phân phối tín dụng trong hệ thống ngân hàng

Có thể dựa vào số liệu từ NHNN và Tổng cục Thống kê để thấy rằng, phân phối tín dụng trong hệ thống không phản ánh hoạt động chung của nền kinh tế. Nông nghiệp, thủy sản, lâm sản chỉ được hưởng tỉ lệ tín dụng bằng rất nhỏ (9%) so với tỉ lệ 21% đóng góp vào nền kinh tế. Nhưng hầu hết tín dụng (50%) là chui vào khu vực thương mại và dịch vụ, so với tỉ lệ 38% đóng góp của chúng vào nền kinh tế. Hình như đây là lần đầu tiên NHNN công bố số liệu như thế này. Thật ra chúng cần được công bố thường xuyên vì vấn đề được đặt ra là hệ thống ngân hàng phục vụ ai trong nền kinh tế.

Bảng 6. Phân phối dư nợ tín tụng trong nền kinh tế, tháng 7 năm 2012

Tháng 7, 2012 (Tỉ đồng) Tỉ lệ dư nợ Tỉ lệ hoạt động kinh tế trên GDP, 2011
Dư nợ cho hoạt động kinh tế 2 ,880,062 100% 100%
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản 257,829 9% 21%
Công nghiệp, xây dựng 1,160,634 40% 42%
Công nghiệp 894,013 31% 35%
Xây dựng 266,621 9% 7%
Thương mại, vận tải, viễn thông 757,610 26% 19%
Thương mại 610,184 21% 14%
Vận tải, viễn thông 147,426 5% 4%
Dịch vụ khác 703,989 24% 19%

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

                                                                 Kết luận

a) Kinh tế Việt Nam phát triển bong bóng vì chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng, bằng cách bơm tiền quá lố. Điều này đưa đến lạm phát và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp khi bắt buộc phải thực hiện chính sách chống lạm phát.

b) Tín dụng của hệ thống ngân hàng được phân phối chủ yếu (50%) vào những hoạt động dịch vụ không rõ ràng. Những hoạt động này có thể là những hoạt động đầy rủi ro như chứng khoán, mua địa ốc (khác hoàn toàn với hoạt động xây dựng tạo ra việc làm), lập ngân hàng, v.v. Có thể nói dường như hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động không nhằm phục vụ sản xuất.

c) Để có thể cải cách và bốc thuốc đúng lúc, các cơ quan quản lý nhà nước cần minh bạch số liệu thường xuyên, không thể để tình trạng như hiện nay như đã vào cuối năm 2012 mà chỉ mới biết số liệu năm 2011, thậm chí năm 2010. Số liệu tài chính tín dụng cần được xuất bản hàng quý cho mọi người sử dụng.
 

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Xem các tập khác
Không tìm thấy trang

Nội dung bạn đang cố truy cập không tồn tại hoặc không còn khả dụng.